Ðọc
Ðọc “Sỏi đá hồn nhiên” của Ðỗ Kim Ngư
BT- Tốt nghiệp Khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội, Đỗ Kim Ngư vào Nam – Thuận Hải
(cũ), được phân công vào ngành văn hóa, vừa sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian
địa phương, vừa sáng tác văn học. Sau chuyển hẳn sang Hội Văn học Nghệ thuật
tỉnh, cho đến khi về hưu hơn 30 năm. Những sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian
của anh chủ yếu phần truyện dân gian, đã in thành sách, xuất bản nhiều tập,
nhưng sáng tác của anh đến 8 năm sau khi đã về hưu lần đầu tiên mới tuyển in
thành tập: “Sỏi đá hồn nhiên”, dày 180 trang, chọn 19 truyện ngắn, Nxb Hội Nhà
văn, xuất bản quý IV, 2019.
Bóng dáng đời thường
Sức hút ấn tượng ở truyện Đỗ Kim Ngư là hiện thực đời thường thông qua lăng kính
trải nghiệm. Đọc truyện Đỗ ta tưởng chừng đã gặp đâu đó những nhân vật gần như
nguyên mẫu, những mảnh đời quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Dĩ nhiên hư
cấu, nhưng từng hoàn cảnh, từng việc làm, qua cách kể, tính hiện thực hiện lên
ghi dấu những con người một thời lịch sử xã hội. Con người trong “Sỏi đá hồn
nhiên”, trong “A Chảy” hay “Tiếng biển vọng về”, “Cà phê cô Le”… không xa lạ với
vùng quê – nhất là cái thị xã anh đang sống những năm sau 1975. Với nhân vật
“tôi” thường là nhân vật chính, ta thấy nhiều khi như là tự truyện, bởi phía sau
nhân vật thấp thoáng bóng hình tác giả. Điều đáng chú ý là cách nhìn trung thực
của người cầm bút: “Để tồn tại, người ta có khi phải sống hai mặt. Ngày, gặp
lính quốc gia xuống lục soát thì chỉ ra vườn: “Đêm qua Việt cộng về đông lắm, có
quày chuối họ cũng chặt mang đi”. Nhưng đêm lại tố với cách mạng: “Nhà có con gà
tính dành bồi dưỡng cho tụi bay, hồi hôm bị bọn lính bắt mất tiêu rồi”. Thật giả
cũng khó phân định”. (Sỏi đá hồn nhiên). Cách nhìn ấy trước đó có thể nhiều
người biết, nhưng chưa ai nói ra.
“Đêm nghe tiếng mưa rơi” là hồi ức những khoảnh đời với lối dẫn chuyện và hành
văn tỉnh táo, lối biểu đạt dung dị, tự nhiên, nhưng thâu tóm cô đọng được những
nghịch cảnh vô lý, éo le, khắc họa tính cách nhân vật đầy ấn tượng, buồn cười
đến xót xa, đã đè lên thân phận làm người mà nhà văn đã từng trải nghiệm. Trong
“Ngày về” – khi mọi người tưng bừng trong không khí sau những ngày đất nước giải
phóng, nhân vật “tôi” lại nhận được điện khẩn: “Về nhà ngay, có chuyện quan
trọng”. Đến nhà mới hay, người anh tử trận mấy ngày trước 30/4/1975, “mẹ đang
ngồi canh nồi cám lợn” dưới bếp, không chịu lên nhà dự lễ truy điệu cho con.
Những ai trong cuộc mới thấu nỗi lòng người mẹ, người em lúc này. Câu chuyện
riêng nhưng gánh cả nỗi đau chung không ít gia đình cùng thời điểm ấy. “Anh Tâm”
là chuyện cha con ở hai chiến tuyến đối địch từ thời chống Pháp sang chống Mỹ,
rồi đến sau ngày miền Nam giải phóng. Một câu chuyện nhỏ, cách kể tự nhiên,
nhưng đặt một dấu chấm than lơ lửng về nỗi niềm dân tộc. Còn “Làng Vạc”, nối kết
chuyện xưa với chuyện bây giờ, thâm thúy đặt ra vấn đề nhân cách, lọc lừa biến
chất của kẻ khốn nạn chối bỏ quê hương.

Trong “Tiếng tơ tiếng trúc”, khi đoàn văn công giải thể, thất nghiệp, các nghệ
nhân tìm mọi cách để mưu sinh. Nhân vật Trúc sử dụng tài thổi sáo của mình để
nhử chim sa bẫy kiếm sống. Nhưng rồi phẩm chất nhân đạo của người nghệ sĩ thực
thụ ở Trúc trỗi dậy, không thể dùng nghệ thuật (tiếng sáo) để sát sinh, chuyển
âm thanh tiếng sáo sang hoạt động địa hạt khác hữu ích cho đời, sáng bừng nét
đẹp nhân văn. Cách kể “Gặp bạn ở Tràng An” tự nhiên, kết nối rất khéo hình ảnh
con dê Ninh Thuận khi “tôi” và Toàn lần đầu vào Nam với con dê Ninh Bình mấy
mươi năm sau khi Toàn đã về Bắc làm chủ quán dê núi ở Tràng An. Truyện cách
điệu, biểu đạt dí dỏm, có duyên, nội dung gai góc, chuyển tải triết lý nhân sinh
sâu sắc của một thời.
Cảm hứng huyền thoại
Bên những hiện thực đời thường, tôi rất chú ý đến cách sử dụng yếu tố huyền
thoại của Đỗ Kim Ngư. Truyện “Miếu thầy” kể: “Bỗng trời nổi gió to, mây ở đâu ùn
ùn kéo đến, chớp vạch ngang trời, sấm sét nổ ầm ầm, mưa như trút nước […] Dân
Động Xá phát hiện lão phú ông bị sét đánh chết. (Về sau, có người bảo lão bị hổ
trắng từ trên núi xuống giết chết trước khi bị sét đánh …)”. Những lắng đọng qua
các cổ mẫu: mưa, sấm, sét, hổ trắng là những gửi gắm đi từ tâm cảm dân gian.
Mưa, sấm, sét là hiện tượng của tự nhiên, với người nguyên thủy, mưa, sấm, sét
là một thế lực siêu nhiên huyền bí, được phong thần, trở thành huyền thoại, xuất
hiện rất nhiều trong các truyện thần thoại của các dân tộc trên thế giới. Trong
thế giới thần linh, thần sét là vị thần hung dữ nhất, chuyên thi hành lệnh trời
theo luật của thiên đình xử phạt những kẻ gây tội ác có hại đến nhân mạng mà
khéo che đậy hoặc luật pháp trần gian không xét xử đến. Thần sét cũng đánh những
ma quỷ, loài vật, cây cỏ tự luyện thành tinh rồi tìm cách hãm hại người trần(1).
Còn hổ (cọp, hùm) là một loài vật hùng mạnh của muôn loài, mệnh danh “chúa tể
sơn lâm”. Trong văn hóa loài người, hổ tượng trưng sự kiêu hãnh, lòng dũng cảm
cùng sức mạnh tuyệt đối, nhất là các nước châu Á, hổ là hình tượng tô tem, mang
yếu tố tâm linh, được sùng bái, thờ cúng. Ở Việt Nam, nhiều làng quê trong cả
nước, người ta thường xây miếu - gọi là miếu ông cọp, hoặc vẽ hình, tạc tượng để
thờ trong đình, dinh, cụ thể như ở miền Trung, trong điện thờ bà Thiên Y A Na,
hay di tích văn hóa quốc gia điện Trường Bà, thị trấn Trà Xuân, huyện miền núi
Trà Bồng, bên cạnh dinh thờ, còn có tượng và ngôi mộ hổ trắng mà người dân trong
vùng kính cẩn gọi là ông Bạch Hổ. Huyền thoại về ông Bạch Hổ biểu hiện niềm mong
ước của người dân vùng cao về một cuộc sống yên bình, sung túc...(2). Hổ trắng -
bạch hổ, nằm trong bộ tứ tượng – tứ linh (Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền
vũ), là hình tượng trong khoa học thiên văn, triết học, phong thủy, cả thuyết âm
dương phương Đông(3). Nhìn chung, từ xưa, hiện tượng mưa, sấm, sét, hình tượng
hổ trắng đã là biểu tượng huyền thoại quý giá của nhân loại. Nó đi vào đời sống
văn hóa tâm linh, ẩn sâu trong vô thức cộng đồng. Trong truyện “Miếu thày”, Đỗ
Kim Ngư mượn mưa, sấm, sét, hổ trắng – bạch hổ, là đi vào khai thác sự lắng đọng
văn hóa trong đáy sâu cảm thức dân gian, ước mơ thể hiện công lý của người bình
dân, phán xét hành xử những thiện ác ở đời, đặc biệt khi cái ác sờ sờ ra đấy mà
nhiều thế lực cố tình che đậy, khuất lấp, nếu luật lệ ở trần gian không xử được
thì sẽ có thế lực thần linh huyền bí, hùng mạnh của đất trời xét xử. “Lưới trời
lồng lộng”, đó là chân lý, cái ác không thể trốn thoát. Cách dẫn truyện rất
khéo.
Đỗ Kim Ngư là cây bút trong bầu không khí văn học hậu chiến – đương đại, nhưng
dụng ý rất nhiều về tác dụng cổ mẫu, nhằm vào sức mạnh ám dụ các yếu tố huyền
thoại để bộc lộ tư tưởng tác phẩm. Trong “Mật ngọt”, ông Huy mơ thấy mình mọc
cánh bay cùng “hàng đàn, hàng lũ ong mật cùng bay về hướng mặt trời”. Mượn hình
ảnh ong đi tìm mật để nói lên hoạt động công phu không thể tưởng nổi của loài
vật này, một phút nó vỗ cánh đến 11.000 lần, có thể bay cao đến 6 dặm (4) và
nhanh 15 dặm một giờ, thường nó sẽ phải bay khoảng 90.000 dặm (ba lần vòng quanh
trái đất) để làm ra một pound mật. Một chuyến đi hút mật của 1 con ong phải thăm
từ 50 đến 100 bông hoa(5). Nhân hóa ong để thấy những thật giả đáng sợ trong quá
trình tích lũy ra mật. Yếu tố huyền thoại này gợi cho người đọc cảm nhận cụ thể
và sâu sắc giá trị công sức và tài năng của văn nghệ sĩ chân chính làm ra tác
phẩm văn chương đích thực và ngược lại. Nhưng làm ra tác phẩm văn học nghệ thuật
không thể bầy đàn.
Theo hướng huyền thoại ấy, thấy hợp lý khi anh đặt tác phẩm “Hoa khôi áo rách” ở
cuối tập truyện. Tôi thích nhất cái kết không đóng của truyện ngắn này, bởi nó
thả lửng tạo sức gợi thăng hoa nét đẹp tình yêu. Không lý luận về tình yêu, mà
tình yêu làm sao lý luận, tác giả để nhân vật “hoa khôi áo rách” phản ứng trước
nhóm đàn ông gọi là “văn nghệ sĩ”: “Các anh phải biết tôi là một con người, hơn
nữa lại là một người đàn bà có nhan sắc. Tôi cần phải ăn, phải sống và sống có
đàn ông. Thế mà các anh không mang đến cho tôi những thứ đó. Các anh chỉ giỏi
tán gái, giỏi làm tình bằng ngòi bút, còn thực tế thì hèn nhát, bất lực, không
đáng làm đàn ông”. Để rồi dẫn đến một cuộc hẹn nơi bãi biển, “đám văn nghệ” cùng
nhảy xuống nước, theo cô từ từ bơi ra khơi, nhưng nhóm đàn ông ấy chợt ớn sợ,
không dám bơi theo. Chỉ có mỗi Rạng – người mà nhóm đàn ông cùng xuống nước chưa
xác định anh là ai, nhưng “hoa khôi áo rách” biết, hai người cứ thế rẽ sóng ra
đi, tưởng chừng như xưa kia đức vua “cầm sừng tê bảy tất” rẽ sóng vào biển khơi,
không biết họ về đâu trước mênh mông đất trời sóng nước, để lại giai thoại tình
yêu ngọt ngào mà chẳng bình yên.
Võ Nguyên
(1) truyenxuatichcu.com; (2) Amazing Vi etnam-Cẩm Thư, Báo Quảng Ngãi online -
05/8/2018; (3) vi.wikipedia.org/wiki; (4)1 dặm = 1,609344 kilômét; (5)
tinhxangocson.com/vi/news.