Những cơn mưa giông cuối mùa xuân, đầu mùa hè là lúc dân quê tôi chuẩn bị hành trang đi “bẻ măng”, có người còn gọi là “cậy gốc tre”. Việc lấy măng đã có từ lâu đời; chủ yếu mỗi nhà lấy vài chục kg măng tươi phơi thành vài kg măng khô để tết kho với thịt heo và từ những năm thập niên 80 thì việc cung cấp măng chua cho thị trường bắt đầu được mở rộng. Vào thời gian có măng, khoảng tháng ba, tháng tư âm lịch thì cũng là lúc mùa cá nục ở biển. Món canh cá nục nấu với măng chua vào những ngày nắng nóng oi bức thật sự là không cầu kỳ, không sang trọng mà mộc mạc như tâm hồn người Bình Thuận. Làm món măng chua không thật sự khó khăn và cũng không dễ chút nào; măng lấy về được bào mỏng cho vào những cái khạp, cái lu làm bằng sành, sứ cho một lượng nước và muối vừa phải để ủ vài hôm cho đủ độ chua, những lần tiếp theo cứ cho vào nước đã ủ trước và thêm một lượng nước muối vừa phải thì 2 đêm có thể đem đi sử dụng được. Tre làng tôi còn cung cấp một lượng chất đốt đáng kể cho nông dân. Tôi còn thuộc mãi bài ca ngân nga của ông nội khi tôi lấy măng về:
“Trồng tre đừng có bẻ măng
Để cho măng lớn, măng quằn thành tre
Sau này thiếp nói chàng nghe
Củi sông chụm đụn, củi tre mau tàn”.
Thời gian trôi qua, ngày nay nghề lấy măng tre cũng không còn khi các rặng tre xanh dọc theo hai bên bờ sông đã nhường chỗ cho các công trình bê tông hóa. Mỗi lần về thăm quê sau bao ngày tháng xa cách, tôi lại hồi tưởng nhớ về những rặng tre, vì tôi có một khoảng thời gian tuổi thơ gắn liền với cây tre; lúc bấy giờ tre là một phần cuộc sống của chúng tôi và cây tre đã nuôi nhiều người ăn học thành tài. Tôi nhớ về nơi chất chứa bao kỷ niệm vui buồn, tôi thèm được sống cảnh làng quê thanh bình mà đằm thắm, dù đời sống vật chất còn bộn bề gian khó mà cuộc sống vẫn ăm ắp tiếng cười và tình người đôn hậu. Vậy mà bây giờ hàng tre không còn nữa, tôi chạnh lòng nhớ lại một khoảng trời tuổi thơ bên cạnh những hàng tre. Tôi mong sao khi xây dựng những công trình để thay đổi cuộc sống ở nông thôn, mọi người nhớ bảo tồn và giữ lại những hàng tre.
Đỗ Văn Cường